Phát Triển 4 Loại Hình Doanh Nghiệp Công Nghệ Số Của Nhiệm Vụ Giải Pháp Phát Triển Kinh Tế Số

Phát Triển 4 Loại Hình Doanh Nghiệp Công Nghệ Số Của Nhiệm Vụ Giải Pháp Phát Triển Kinh Tế Số

Trên thế giới chưa có sự thống nhất về đo lương lưu lượng dữ liệu toàn cầu và đánh giá thị trường dữ liệu. Việc đo lường giá trị của dữ liệu vẫn là một thách thức lớn.

Trên thế giới chưa có sự thống nhất về đo lương lưu lượng dữ liệu toàn cầu và đánh giá thị trường dữ liệu. Việc đo lường giá trị của dữ liệu vẫn là một thách thức lớn.

Cơ hội nào cho Việt Nam trong phát triển công nghiệp công nghệ số?

Công nghiệp công nghệ số đang và sẽ được tích hợp vào tất cả các ngành, lĩnh vực kinh tế khác ngoài việc tự thân nó là một ngành có tốc độ phát triển mạnh mẽ. Trong bối cảnh hiện nay, công nghiệp công nghệ số đã khẳng định được vai trò, vị trí là nền tảng, là hạ tầng thúc đẩy các ngành, lĩnh vực khác phát triển và sẽ tiếp tục đóng vai trò dẫn dắt, tạo nền tảng phát triển nhanh và bền vững các ngành, lĩnh vực để phát triển kinh tế số, xã hội số. Đặc biệt trong giai đoạn tới, để thực hiện thành công CĐS toàn diện quốc gia đã được định hướng trong các Nghị quyết, chương trình của Đảng [1] và Nhà nước [2] công nghiệp công nghệ số cần phát triển nhanh, phải đi trước một bước. Nhằm cụ thể hóa chủ trương, định hướng của Đảng và Nhà nước thành các giải pháp thúc đẩy phát triển công nghiệp công nghệ số, cần phải nhận diện rõ những cơ hội đối với ngành công nghiệp này.

Thứ nhất, Việt Nam có tiềm năng bùng nổ thị trường ứng dụng công nghệ số nội địa: Với gần 100 triệu dân, trong đó dân số trẻ và số người dùng di động thông minh chiếm tỷ lệ cao. Hệ thống cơ sở hạ tầng thông tin và truyền thông quốc gia tiếp tục được xây dựng hiện đại và rộng khắp. Chính phủ đã đổi mới mạnh mẽ phương thức làm việc gắn với ứng dụng công nghệ số trong xây dựng chính phủ điện tử (CPĐT), CĐS quốc gia lấy người dân là trung tâm, tạo nền tảng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế số, hình thành Chính phủ số, xã hội số. Nguồn nhân lực công nghệ của Việt Nam có kiến thức tốt về công nghệ. Ở Việt Nam, hàng năm có gần 50.000 sinh viên tốt nghiệp ngành CNTT hoặc liên quan đến lĩnh vực CNTT.

Đồng thời, Việt Nam cũng có nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao với thị trường nội địa đủ lớn và đa dạng, có số lượng người tiêu dùng am hiểu công nghệ, kỹ thuật số và quan tâm đến việc thử nghiệm các sản phẩm mới, có tiềm năng thu hút đầu tư vào ứng dụng và phát triển sản phẩm công nghệ số. Việt Nam được đánh giá là môi trường an toàn để các DN đầu tư dài hạn vào công nghệ bởi đây là quốc gia được đánh giá có chế độ chính trị và chính sách kinh tế vĩ mô ổn định, điều này đã tạo niềm tin cho các nhà đầu tư nước ngoài, thu hút vốn đầu tư để phát triển DN công nghệ số Việt Nam.

Với quyết tâm định hướng chính sách phát triển công nghệ số, Việt Nam đã tích cực đầu tư vào lĩnh vực công nghệ số dưới nhiều hình thức. Chính phủ đã ban hành các chính sách về cách CMCN 4.0, về phát triển DN công nghệ số, coi công nghệ là nhân tố chính để phát triển kinh tế: Đề án CĐS quốc gia hướng đến một không gian phát triển mới - kinh tế số, xã hội số, CPĐT, mở ra cơ hội to lớn cho Việt Nam phát triển đột phá. Các Đề án kinh tế chia sẻ, Nghị định về hỗ trợ DN vừa và nhỏ, khởi nghiệp sáng tạo đã tạo ra nhiều cơ hội kinh doanh cho DN công nghệ khởi nghiệp [3].

Hiện Việt Nam đã có trên 64.000 DN hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp công nghệ số (công nghiệp phần cứng, điện tử; công nghiệp phần mềm; công nghiệp nội dung số; dịch vụ CNTT) [4]. Cộng đồng cũng đã hình thành được một số DN đầu tàu, có chiến lược phát triển phù hợp với CMCN 4.0 như VNPT với Chiến lược VNPT 4.0, Viettel có chiến lược xác định phải đi đầu trong cuộc cách mạng 4.0 với vai trò dẫn dắt và lan tỏa cả về công nghệ, dịch vụ, mô hình kinh doanh, nghiên cứu sản xuất, sản phẩm. Đặc tính của các DN trong lĩnh vực công nghệ cao là khả năng phát triển sản phẩm nhanh. Đặc tính này đã được phát huy trong giai đoạn của đại dịch COVID-19, nhiều sản phẩm công nghệ số như khai báo, theo dõi, đánh giá tụ tập đông người và phạm vi di chuyển, học và làm việc từ xa đã được triển khai trong thời gian ngắn giúp giảm bớt sự lây lan của dịch bệnh, sớm đưa nền kinh tế vào trạng thái hồi phục phát triển. Tuy nhiên, để có thể khai thác được hết tiềm năng của thị trường nội địa, các quy định đối với các công nghệ mới nổi cần sớm được thiết lập để sự sáng tạo của DN công nghệ số trong việc phát triển các giải pháp mới được đưa vào cuộc sống một cách thuận lợi.

Thứ hai, đặc sắc của Việt Nam trong thúc đẩy phát triển công nghệ mới

Hệ thống chính trị của Việt Nam được xây dựng trên cơ sở Đảng cầm quyền, một nhà nước pháp quyền mạnh mẽ, sáng suốt, gắn bó mật thiết và hành động vì lợi ích của nhân dân, từ Trung ương đến cơ sở. Do vậy, khi triển khai một chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước, cụ thể là phát triển công nghiệp số thì hệ thống truyền thông từ Trung ương đến cơ sở góp phần quan trọng trong nhận thức, tư tưởng và hành động. Đây là một trong những đặc sắc của Việt Nam để phát triển công nghiệp công nghệ số, đưa công nghệ số đến tận ngõ ngách cuộc sống.

Ngày 11/12, tại Quảng Ninh, Bộ Thông tin và Truyền thông phối hợp với UBND tỉnh Quảng Ninh tổ chức Diễn đàn quốc gia về phát triển doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam lần thứ V với chủ đề “Sáng tạo ứng dụng số để phát triển kinh tế số - Động lực cho tăng trưởng kinh tế và năng suất lao động”.

Dự và phát biểu tại Diễn đàn, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà chúc mừng các đơn vị đã đạt được Giải thưởng sản phẩm công nghệ số Make in Viet Nam năm 2023, đồng thời đặt kỳ vọng vào sự phát triển nhanh chóng của lực lượng doanh nhân, doanh nghiệp công nghệ số tại Việt Nam, với những giải pháp, công nghệ, ứng dụng số không ngừng đem đến sự đổi mới, bứt phá cho tất cả các lĩnh vực, mọi mặt kinh tế - xã hội, có những sản phẩm mang tầm cỡ quốc gia, khẳng định vị trí của Việt Nam trên thế giới.

Phát biểu khai mạc, Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Mạnh Hùng nhấn mạnh, Diễn đàn là thời điểm để nhìn lại, tổng kết, đánh giá sự phát triển, tôn vinh các doanh nghiệp công nghệ số tiêu biểu thông qua Giải thưởng sản phẩm công nghệ số Make in Viet Nam. Đây là những sản phẩm công nghệ số xuất sắc được thiết kế, sáng tạo và làm ra tại Việt Nam, có tác động, ảnh hưởng lớn trong việc đưa hoạt động của người dân, doanh nghiệp và chính quyền lên môi trường số, góp phần thúc đẩy phát triển chính phủ số, kinh tế số và xã hội số.

Nhìn lại chặng đường 4 năm qua, từ năm 2019 đến nay, ngành công nghiệp công nghệ số Việt Nam đã có những bước phát triển và trưởng thành rất đáng khích lệ. Số lượng doanh nghiệp công nghệ số tăng 30%, doanh thu công nghiệp công nghệ số tăng 32%, tỷ trọng Make in Vietnam - Làm ra tại Việt Nam của các sản phẩm công nghiệp công nghệ số tăng từ 21% lên 29%. Riêng lĩnh vực sản xuất phần mềm cho nước ngoài tăng trưởng 43%, với 1.400 doanh nghiệp, doanh thu tiến dần đến mốc 10 tỷ USD.

Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng cho rằng, doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam từ nay có một sứ mệnh mới là công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thông qua sáng tạo các ứng dụng số, chuyển đổi số cho các ngành, các lĩnh vực. Phát triển kinh tế số các ngành cũng chính là cách để tăng năng suất lao động.

Theo Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng, năm 2024 cũng là năm đầu tiên Việt Nam thực hiện Chiến lược Quốc gia về phát triển Công nghiệp bán dẫn. Đây là ngành công nghiệp nền tảng và không chỉ có vậy, đó còn là ngành công nghiệp trọng yếu quốc gia trong 30 - 50 năm tới.

Người đứng đầu Bộ Thông tin và Truyền thông cũng nhấn mạnh, phát triển Công nghiệp bán dẫn cũng là cơ hội để Việt Nam dựng lại ngành công nghiệp điện tử nước nhà (như thiết điện tử tiêu dùng, thiết bị điện tử y tế, thiết bị điện tử công nghiệp,...), nhất là khi ngành này đang bước vào giai đoạn chuyển đổi sang thiết bị điện tử AI, thiết bị IoT.

Công nghiệp bán dẫn cũng là cốt lõi của công nghiệp Chuyển đổi Số, Công nghiệp Chuyển đổi Số là thị trường lớn nhất của chip bán dẫn. Việt Nam có tới 100 triệu dân, là một thị trường lớn, lại đang ở giai đoạn phát triển nhanh, công nghiệp hoá nhanh, chuyển đổi số nhanh, tiêu dùng điện tử nhiều, nên sẽ là một bối cảnh thuận lợi cho ngành Công nghiệp bán dẫn nước nhà.

"Công nghiệp bán dẫn là một chuỗi cung ứng, một hệ sinh thái có tính toàn cầu. Chúng ta sẽ phát triển công nghiệp bán dẫn Việt Nam trong một hệ sinh thái trong nước và toàn cầu. Vừa có tự chủ, vừa có hợp tác quốc tế. Nhưng Việt Nam vẫn phải tiến tới một chuỗi cung ứng hoàn chỉnh, không chỉ là một vài công đoạn. Công nghệ đang thay đổi rất nhanh, có thể còn nhanh hơn. Chỉ có một chuỗi cung ứng quốc gia đầy đủ thì mới đáp ứng được tốc độ nhanh và giá thành thấp," Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng cho biết.

Diễn đàn quốc gia về phát triển doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam lần thứ V là sự kiện nhằm truyền tải những tư tưởng cốt lõi về phát triển công nghệ số, tinh thần Make in Viet Nam, ứng dụng số để giúp tăng doanh thu, lợi nhuận và năng suất lao động; phát triển doanh nghiệp công nghệ số góp phần đưa Việt Nam thành nước phát triển nhanh và bền vững, phát triển bao trùm, thoát bẫy thu nhập trung bình.

Diễn đàn bao gồm một phiên chính và các phiên chuyên đề. Tại phiên chính, các diễn giả chia sẻ các câu chuyện thành công trong việc ứng dụng số, tạo ra các sản phẩm số ứng dụng trong thực tiễn, giúp thay đổi Việt Nam, thay đổi thế giới. Tại các phiên chuyên đề, các diễn giả sẽ trao đổi, thảo luận về việc phát triển các sản phẩm dựa trên công nghệ mới như Internet vạn vật, trí tuệ nhân tạo, vi mạch bán dẫn và việc đưa chúng ra thị trường trong nước và quốc tế.

Các diễn giả cũng trao đổi, thảo luận về những rào cản, thách thức và giải pháp đột phá để cung cấp ngày càng nhiều sản phẩm, giải pháp, dịch vụ trên nền tảng các công nghệ số mới cho thị trường.

Cũng tại Diễn đàn, Bộ Thông tin và Truyền thông tổ chức Lễ công bố và trao Giải thưởng sản phẩm công nghệ số Make in Viet Nam năm 2023 nhằm tôn vinh các doanh nghiệp, tổ chức trong nước đã có sản phẩm, giải pháp và dịch vụ công nghệ số xuất sắc.

Bên lề Diễn đàn có các triển lãm trưng bày, giới thiệu, trải nghiệm trực tiếp về các sản phẩm công nghệ số Make in Viet Nam, thể hiện năng lực của các doanh nghiệp công nghệ số, phát triển Chính phủ số, kinh tế số và xã hội số./.

Tại Điều 188 Luật Doanh nghiệp số 59/2020/QH14, doanh nghiệp tư nhân được quy định là loại hình doanh nghiệp do một cá nhân sở hữu và quản lý. Chủ sở hữu chịu trách nhiệm giám sát mọi mặt, bao gồm các vấn đề tài chính, pháp lý và hoạt động. Mặc dù doanh nghiệp tư nhân có lợi thế về tính linh hoạt trong hoạt động, nhưng chủ sở hữu cũng phải đối mặt với những rủi ro, đặc biệt liên quan đến trách nhiệm cá nhân đối với tài sản trong trường hợp doanh nghiệp hoạt động thua lỗ và phá sản.

Hệ thống doanh nghiệp tư nhân của Việt Nam đã, đang thể hiện sự quyết tâm, tính sáng tạo và đóng vai trò là chất xúc tác quan trọng cho tăng trưởng kinh tế trong những năm gần đây. Hệ thống này đã tạo ra nhiều cơ hội việc làm một cách hiệu quả và góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống nói chung cho người dân.

Do đó, nhận thức được tầm quan trọng của doanh nghiệp tư nhân, Chính phủ đã ban hành nhiều quyết sách phát triển khu vực này, như Nghị quyết số 45/NQ-CP ngày 31/3/2023 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 03/6/2017 Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Theo đó, mục tiêu đến năm 2025 là thành lập 1,5 triệu doanh nghiệp tư nhân, với mục tiêu đưa khu vực tư nhân chiếm 55% tổng mức tăng tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Phấn đấu đến năm 2030 thành lập tối thiểu 2 triệu doanh nghiệp tư nhân, đóng góp đáng kể 55-65% vào GDP. Để đạt được các mục tiêu này đòi hỏi nỗ lực hợp tác của toàn thể hệ thống chính trị, các cơ quan chính phủ và doanh nghiệp trong những năm tới.

Tại Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 10/10/2023 của Bộ Chính trị về xây dựng và phát huy vai trò đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ mới, trong đó mục tiêu tổng quát nhằm phát triển đội ngũ doanh nhân lớn mạnh về số lượng, chất lượng, cơ cấu hợp lý, có tầm nhìn, trí tuệ, đạo đức, tinh thần kinh doanh, làm giàu chính đáng, năng động, sáng tạo, năng lực quản trị tiên tiến, tuân thủ pháp luật, có đạo đức, văn hoá kinh doanh mang bản sắc dân tộc; có trách nhiệm xã hội, ý thức bảo vệ môi trường, đóng góp xứng đáng cho các mục tiêu phát triển đất nước.

Theo Tổng cục Thống kê (2023) và ước tính của tác giả, đến hết tháng 12/2023, toàn quốc trên 809.000 doanh nghiệp tư nhân. Một số doanh nghiệp tư nhân lớn của Việt Nam đã khẳng định vị thế tại thị trường trong nước cũng như trên trường quốc tế, như: VinGroup, VietJet. Việt Nam có khoảng 30 doanh nghiệp tư nhân có giá trị thị trường trên 1 tỷ USD trên thị trường chứng khoán. Khu vực kinh tế tư nhân đóng góp đáng kể hơn 40% vào tổng sản phẩm quốc nội (GDP), khoảng 30% vào ngân sách nhà nước và là nơi sử dụng lao động chính cho khoảng 85% lao động cả nước trong những năm qua. Đầu tư của khu vực tư nhân ngày càng tăng, kéo theo tổng vốn đầu tư xã hội do khu vực kinh tế tư nhân đóng góp chiếm tỷ trọng lớn hơn so với đầu tư trực tiếp của nhà nước và nước ngoài (FDI). Từ năm 2010 đến năm 2023, tỷ trọng đầu tư từ khu vực tư nhân có xu hướng tăng lên đáng kể, từ 44,6% năm 2010 lên 59,5% vào năm 2021 và khoảng trên 63% vào 2023. Do đó, mặc dù chi tiêu công giảm nhưng tổng đầu tư vào cơ sở hạ tầng vẫn thể hiện xu hướng tăng liên tục.

Theo Tổng cục Thống kê (2023) và tính toán của tác giả thì trong năm 2023, số lượng doanh nghiệp tư nhân tiếp tục tăng, tăng khoảng 5% so với năm 2022, trong các ngành thì chỉ có kinh doanh bất động sản là lĩnh vực duy nhất có số lượng doanh nghiệp thành lập mới trong năm 2023 giảm với năm trước, đồng thời cũng là ngành có số lượng doanh nghiệp giải thể tăng nhiều nhất. Cụ thể, tổng số doanh nghiệp gia nhập và tái gia nhập thị trường năm 2023 đạt 217,7 nghìn doanh nghiệp, tăng 4,5% so với năm 2022; 172,6 nghìn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường, tăng 20,5%, điều này thể hiện phần nào bức tranh kinh tế của Việt Nam năm 2022, bất động sản vẫn sẽ gặp khó khăn trong thời gian tới.

Theo nghiên cứu của Viện Chiến lược phát triển (2023), doanh nghiệp tư nhân dù có mặt ở 53/63 tỉnh/thành nhưng tập trung đáng kể ở Đồng bằng sông Hồng và khu vực Đông Nam Bộ. Hai khu vực này cùng nhau chiếm khoảng 75% trong số 500 doanh nghiệp tư nhân hàng đầu, cho thấy xu hướng tăng nhẹ. Hai trung tâm kinh tế chính là TP. Hồ Chí Minh và Hà Nội, cùng với các khu vực có đặc điểm tập trung kinh doanh đáng kể như Bình Dương, Đồng Nai và Hưng Yên, tổng cộng cung cấp khoảng 50-52% tổng sản lượng kinh tế. Theo Hình 2 cho thấy, giai đoạn 2021 -2023 tốc độ tăng trưởng số lượng doanh nghiệp tư nhân tương đối tốt, từ 5% đến 10%, mặc dù vừa trải qua đại dịch COVID-19.

Theo Tổng cục Thống kê, tính chung trong năm 2023, bình quân một tháng có 18,1 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động. Số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường là 172,6 nghìn doanh nghiệp, tăng 20,5%; bình quân một tháng có 14,4 nghìn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường. Dịch COVID-19 kéo dài đã làm suy giảm đáng kể khả năng chống chịu của các doanh nghiệp.

Bảng 2: Số lượng doanh nghiệp tư nhân đang hoạt động và tốc độ tăng trưởng

Nguồn: Tổng cục Thống kê và tính toán của tác giả (2023)

Các doanh nghiệp dịch vụ có lợi thế về số lượng, đặc biệt nằm trong top 10 doanh nghiệp tư nhân lớn nhất, tính đến cuối năm 2022. Ngành Tài chính, Ngân hàng và Bảo hiểm thể hiện sự thống trị, với sự góp mặt của của 7 doanh nghiệp năm 2019, 9 doanh nghiệp năm 2020 và 8 doanh nghiệp năm 2021. Số lượng doanh nghiệp trong ngành Thương mại lọt vào top 10 đã giảm từ 3 doanh nghiệp năm 2019 xuống còn 1 doanh nghiệp trong 2 năm tiếp theo (Viện Chiến lược Phát triển, 2023).

Ngành Công nghiệp sản xuất và chế biến, một phần đáng kể trong số 500 doanh nghiệp tư nhân lớn nhất, đã có những biến động rõ rệt trong những năm gần đây. Cụ thể, năm 2019 có 237 doanh nghiệp thuộc ngành này, chiếm 47,4% tổng số; con số này tăng lên 245 doanh nghiệp vào năm 2020, chiếm 49,0% tổng số doanh nghiệp; và sau đó giảm xuống còn 233 doanh nghiệp vào năm 2021, chiếm 46,6% tổng số.

Các doanh nghiệp này ưu tiên một số ngành công nghiệp như chế biến thực phẩm, kim loại và sản phẩm kim loại, sản xuất vật liệu xây dựng, khai thác than và dầu, năng lượng và điện tử. Lĩnh vực Bất động sản và xây dựng có số lượng tương đối đáng kể trong danh sách nói trên. Trong thời kỳ COVID-19, chứng kiến sự sụt giảm về số lượng doanh nghiệp xây dựng, giảm từ 67 xuống 50 trong danh sách 500 doanh nghiệp tư nhân lớn nhất Việt Nam. Điều này chủ yếu là do điều kiện thị trường khó khăn.

Trong toàn bộ hệ thống các doanh nghiệp tư nhân thì trong vòng 2 năm khi dịch bệnh bùng phát, những doanh nghiệp có sự sụt giảm lớn về quy mô là thuộc nhóm giải trí (-38%), xây dựng (-18,9%), dịch vụ lưu trú ăn uống (-14%). Trong khi đó, một số nhóm ngành khác lại tăng khá tốt trong điều kiện dịch bệnh như điện, ga; y tế; vận tải, kho bãi. Phần lớn doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh trong 8 tháng đầu năm 2023 có thời gian hoạt động ngắn, dưới 5 năm với 34.478 doanh nghiệp (chiếm 48,0%); tập trung chủ yếu ở quy mô nhỏ (dưới 10 tỷ đồng) với 63.736 doanh nghiệp (chiếm 88,7%, tăng 19,4% so với cùng kỳ năm 2022).

Năm 2023 theo khu vực kinh tế, có 1.776 doanh nghiệp thành lập mới thuộc khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, giảm 9.3% so với năm 2022; 38 ngàn doanh nghiệp thuộc khu vực công nghiệp và xây dựng, tăng 4.8%; 119.5 nghìn doanh nghiệp thuộc khu vực dịch vụ, tăng 8.3% (Tổng cục Thống kê, 2023).

Số lượng và chất lượng lao động

Triển vọng việc làm do các doanh nghiệp tạo ra trong nền kinh tế là nhỏ do số lượng doanh nghiệp hạn chế, và mật độ doanh nghiệp thấp. Tính đến cuối năm 2022 và đầu 2023, các doanh nghiệp tuyển dụng lực lượng lao động ước tính khoảng 15 triệu người, chiếm gần 30% dân số trong độ tuổi lao động. Khoảng 70% lực lượng lao động làm việc tại các doanh nghiệp ở Đồng bằng sông Hồng và khu vực Đông Nam Bộ.

Tuy nhiên, dự đoán tỷ trọng lao động ở Đồng bằng sông Hồng sẽ tăng nhẹ, từ 32,3% giai đoạn 2011-2015 lên 33,8% năm 2022. Ngược lại, khu vực Đông Nam Bộ được dự báo sẽ giảm 3,5 điểm phần trăm, giảm từ 38,3% xuống 34,8% trong cùng khung thời gian. Mức độ việc làm giữa các doanh nghiệp ở khu vực Tây Nguyên có sự thiếu hụt đáng chú ý, thể hiện qua xu hướng giảm từ 2,1% trong giai đoạn 2011-2015 xuống còn 1,5% vào năm 2022 (Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2023).

Khoảng 73-75% lực lượng lao động tham gia vào ba lĩnh vực chính, trong đó sản xuất sử dụng trên 50%, xây dựng và bán buôn/bán lẻ sử dụng khoảng 10% và sửa chữa ô tô chiếm khoảng 13-15%. Khoảng 3,7-3,8 triệu người, chiếm 25% lực lượng lao động trong các doanh nghiệp, đang làm việc trong các ngành dịch vụ đa dạng. Năm 2022, các doanh nghiệp dịch vụ chuyên nghiệp, lĩnh vực khoa học và công nghệ sử dụng khoảng 570.000 lao động. Trong số đó, khoảng 100.000 vị trí được phân bổ cho các lĩnh vực như chăm sóc sức khỏe, giáo dục và đào tạo, cùng những lĩnh vực khác.

Năng suất lao động của Việt Nam, bất chấp những tiến bộ gần đây, vẫn tiếp tục được xếp vào loại thấp ở châu Á. Năng suất lao động của Việt Nam tụt hậu đáng kể so với Singapore với hệ số khoảng 15, Nhật Bản với hệ số 11 và Hàn Quốc với hệ số 10. So với các đối tác Đông Nam Á, Việt Nam có năng suất lao động tương đối thấp, chỉ bằng 1/5 của Malaysia và 2/5 của Thái Lan. Việt Nam có năng suất lao động tốt hơn Campuchia với tỷ lệ 2,4 lần. Tương tự, năng suất lao động của Việt Nam vượt Myanmar gấp 1,6 lần, Lào gấp 1,2 lần. Năm 2021, Việt Nam chứng kiến năng suất lao động tăng đáng kể.

Tốc độ tăng năng suất lao động năm 2021 tăng khiêm tốn 4,6% so với năm trước. Tuy nhiên, khi tính cả lao động tham gia vào công việc tự túc, tốc độ tăng trưởng bị giới hạn ở mức 2,9%. Sự tăng trưởng chậm lại này có thể là do những tác động tiêu cực đáng kể của đại dịch Covid-19 đối với nền kinh tế Việt Nam. Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) có tốc độ tăng trưởng khiêm tốn 2,56% trong năm 2021, trùng với thời điểm người lao động dần tái hòa nhập lực lượng lao động sau khi thực hiện các biện pháp giãn cách xã hội.

Mặc dù, tốc độ tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ là 8,02% được chứng kiến vào năm 2022 và giảm xuống còn hơn 5% vào 2023 nhưng mức tăng năng suất lao động tương ứng là tương đối khiêm tốn. Tốc độ tăng năng suất lao động bình quân hàng năm giai đoạn 2021 - 2022 là 4,65%, 2022-2023 là 4.6%, thấp hơn nhiều so với mục tiêu đề ra trong Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ 2021 - 2025 và Kế hoạch kinh tế 10 năm và chiến lược phát triển xã hội giai đoạn 2021-2030. Các kế hoạch này đã đặt mục tiêu đạt tốc độ tăng trưởng năng suất lao động bình quân hàng năm trên 6,5%.

Hình 3: Tốc độ tăng năng suất lao động

Từ năm 2011 đến năm 2023, tỷ trọng vốn tự có trong tổng vốn sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trên cả nước luôn có sự ổn định nhất quán, trung bình khoảng 32%. Tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu trung bình xấp xỉ bằng 2, thường được coi là ngưỡng trên có thể chấp nhận được. Tuy nhiên, điều đáng chú ý là vốn tự có luôn chiếm phần lớn vốn đầu tư của các doanh nghiệp siêu nhỏ, chiếm khoảng 55%. Tương tự, các doanh nghiệp nhỏ dựa vào vốn chủ sở hữu khoảng 40% nhu cầu đầu tư của họ, trong khi các tổ chức cỡ vừa đảm bảo khoảng một phần ba số vốn của họ thông qua vốn chủ sở hữu.

Mặt khác, các doanh nghiệp lớn chỉ dựa vào vốn cổ phần để đáp ứng hơn 1/4 nhu cầu đầu tư của họ. So với vốn chủ sở hữu, doanh nghiệp siêu nhỏ có tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu xấp xỉ 0,8, doanh nghiệp nhỏ có tỷ lệ khoảng 1,5, doanh nghiệp vừa có tỷ lệ gần bằng 2 và doanh nghiệp lớn có tỷ lệ 2,8. Điều đáng chú ý là các doanh nghiệp siêu nhỏ có xu hướng duy trì tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu thấp đáng kể vì hoạt động của họ chủ yếu được tài trợ bằng vốn tự có. Tỷ lệ vốn tự có hiện nay của các doanh nghiệp tư nhân trong nước khá thấp, chỉ khoảng 30%.

Từ năm 2011 đến năm 2023, tỷ suất sinh lời của các doanh nghiệp có xu hướng giảm ở tất cả các vùng, ngoại trừ Đồng bằng sông Hồng. Điều đáng chú ý là tỷ suất sinh lời ở khu vực Đông Nam Bộ có giá trị tương đối thấp hơn so với các khu vực khác. Xu hướng này cho thấy sự suy giảm và hiện ở mức xấp xỉ 35%, thể hiện mức thấp nhất. Từ năm 2011 đến năm 2023, sự hiện diện liên tục của các doanh nghiệp thua lỗ ở tất cả các khu vực. Theo khảo sát của Tổng cục Thống kê 2023, quý II/2023, có 44,1% số doanh nghiệp đánh giá xu hướng sẽ tốt lên so với quý I/2023; 35,3% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh sẽ ổn định và 20,6% số doanh nghiệp dự báo khó khăn hơn.

Thực hiện các tiêu chuẩn phát triển bền vững

Trước xu thế toàn cầu hướng tới phát triển bền vững và ứng xử có đạo đức của doanh nghiệp, nhiều quốc gia, bao gồm cả Việt Nam đã thực hiện các biện pháp tích cực để áp dụng các mục tiêu liên quan đến tiêu chí ESG (Môi trường, Xã hội và Quản trị). Các tiêu chuẩn này đánh giá các biến số gắn liền với phát triển bền vững và tầm ảnh hưởng của doanh nghiệp tới cộng đồng. Việc thực hiện các tiêu chí này được kỳ vọng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp đạt được sự phát triển bền vững, đặc biệt là các doanh nghiệp tư nhân trong những năm tới.

Theo Báo cáo mức độ sẵn sàng về ESG của Công ty PwC Việt Nam năm 2023 về các tổ chức tư nhân tại Việt Nam cho thấy một tỷ lệ đáng kể các doanh nghiệp được khảo sát, cụ thể là 60%, thể hiện sự thiếu hiểu biết về các nguyên tắc ESG. Phát hiện này nhấn mạnh sự cần thiết cấp bách của việc nâng cao nhận thức và phổ biến kiến thức trong lĩnh vực này. Hơn nữa, rõ ràng là các doanh nghiệp này đang gặp phải sự chênh lệch đáng kể về quản lý và báo cáo ESG khi so sánh với bối cảnh rộng hơn ở Việt Nam. Chính xác hơn, dữ liệu chỉ ra rằng 60% doanh nghiệp thiếu khuôn khổ quản trị chính thức hoặc có cấu trúc để giải quyết các vấn đề ESG.

Ngoài ra, chỉ có 29% tổ chức xác định rõ ràng mục tiêu và thước đo ESG. Để so sánh, tỷ lệ phần trăm trung bình của tất cả các loại hình doanh nghiệp là 51% do thiếu cơ cấu quản trị và 47% do thiếu các mục tiêu và số liệu ESG rõ ràng (PWC, 2023). Báo cáo cũng cho thấy, 67% các doanh nghiệp được khảo sát cho rằng, việc thiếu quy định minh bạch là thách thức lớn đối với doanh nghiệp trong việc tích hợp ESG vào khuôn khổ quản lý rủi ro.

Tồn tại, hạn chế đối với doanh nghiệp tư nhân

Thứ nhất, chủ yếu vẫn là các doanh nghiệp nhỏ, mật độ thấp: Các doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam đã không ngừng lớn mạnh trong nhiều năm qua, nhưng hiện nay chưa có nhiều doanh nghiệp tư nhân lớn, đạt được tầm cỡ thế giới. Đại bộ phận (gần 70%) là doanh nghiệp siêu nhỏ; thiếu vắng doanh nghiệp vừa; cầu nối giữa doanh nghiệp lớn với doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ.

Thứ hai, doanh nghiệp trong nước chưa thực sự chủ động hội nhập; mức độ hội nhập, năng lực hội nhập kinh tế quốc tế và sức chống chịu còn yếu, làm cho nền kinh tế dễ bị tổn thương trước các tác động bất lợi từ bên ngoài.

Thứ ba, hiệu quả kinh doanh còn hạn chế: Chỉ 40% số doanh nghiệp tư nhân trong nước kinh doanh có lãi. Chưa đầy 30% số doanh nghiệp siêu nhỏ kinh doanh có lãi. Hiệu quả kinh doanh trên tất cả các chỉ số của doanh nghiệp nhóm này nói chung là thấp; (thường bằng 0 hoặc âm); tức là, phần đông doanh nghiệp siêu nhỏ không bảo toàn được vốn, không thể tự tích luỹ để tái đầu tư. Tỷ lệ doanh nghiệp kinh doanh có lãi trong các ngành dịch vụ: hoạt động chuyên môn, y tế, giáo dục và đào tạo, vui chơi giải trí khá thấp, chỉ khoảng 20%.

Thứ tư, năng suất lao động còn thấp: Thực tế, năng suất lao động của Việt Nam vẫn đang thuộc nhóm thấp ở châu Á dù có những cải thiện trong những năm gần đây. Giai đoạn 2022-2023, mỗi lao động chỉ bằng 11,4% mức năng suất lao động của Singapore; 35,4% của Malaysia; Thái Lan 64,8%; 79% của Indonesia. So với một số nền kinh tế có quy mô lớn, năng suất lao động của Việt Nam bằng 5,4% của Mỹ; 24,7% của Hàn Quốc và 59% của Trung Quốc.

Thứ năm, còn nhiều hạn chế về thể chế hỗ trợ cho khu vực doanh nghiệp tư nhân phát triển, từ khả năng tiếp cận vốn, sự bình đẳng với các loại hình doanh nghiệp khác trong nền kinh tế...

Thời gian tới, nhằm phát triển khu vực doanh nghiệp tư nhân, cần chú trọng các nội dung sau:

Thứ nhất, Chính phủ nên tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi bằng cách giảm bớt các rủi ro và chi phí liên quan đến việc khởi nghiệp, cải thiện hạ tầng giao thông và viễn thông, đơn giản hóa các quy trình hành chính và cần tạo điều kiện bình đẳng cho cả khu vực nhà nước và khu vực tư nhân.

Thứ hai, Chính phủ cần thực thi các chính sách hỗ trợ tài chính, bao gồm vay vốn với lãi suất ưu đãi và cung cấp vốn đầu tư cho các doanh nghiệp tư nhân, đặc biệt là các doanh nghiệp ở các lĩnh vực công nghệ cao và đổi mới sáng tạo. Cần tìm kiếm những cách mới để cung cấp nguồn vốn dài hạn ổn định mà hiện không sẵn có cho khu vực tư nhân, và cần xây dụng những thị trường mới để tạo lập những nguồn vốn này.

Thứ ba, hỗ trợ xuất khẩu và mở rộng thị trường: Hỗ trợ các doanh nghiệp tư nhân trong việc xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ, cũng như tìm kiếm và mở rộng các thị trường xuất khẩu mới. Chính phủ thúc đẩy hợp tác quốc tế để tạo ra các cơ hội hợp tác kinh doanh và hỗ trợ cho các doanh nghiệp tư nhân trong việc tìm kiếm đối tác và bạn hàng nước ngoài.

Thứ tư, hỗ trợ các doanh nghiệp tư nhân trong một số ngành trọng điểm của Việt Nam có lợi thế như trong lĩnh vực nông nghiệp, thủy hải sản hay trong lĩnh vực công nghệ, bán dẫn làm đầu tàu dẫn dắt hệ thống doanh nghiệp tư nhân của Việt Nam.

Thứ năm, minh bạch hóa thông tin, đẩy mạnh hỗ trợ doanh nghiệp về nguồn lực, cơ chế và thông tin thực hiện các tiêu chuẩn phát triển bền vững. Đây là cơ hội đặc biệt để doanh nghiệp tạo nên các tác động tích cực vượt trội so với việc thực hiện những hoạt động từ thiện truyền thống. Việc thực hành áp dụng các mục tiêu liên quan đến tiêu chí ESG (Môi trường, Xã hội và Quản trị) có thể giúp các doanh nghiệp đạt được thành công lâu dài, giảm thiểu rủi ro, phát triển danh tiếng và thúc đẩy đổi mới hiệu quả - và do đó, tác động trực tiếp đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.

Tuy đạt những kết quả nêu trên, nhưng lĩnh vực này vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức. Hiện nay, các doanh nghiệp công nghệ số có giá trị gia tăng của sản phẩm dịch vụ công nghệ số ở mức thấp, năng lực đổi mới sáng tạo, nghiên cứu phát triển và làm chủ các công nghệ mới còn kém. Mặt khác, các đơn vị trong lĩnh vực này chưa chú trọng phát triển chất lượng, thương hiệu sản phẩm dịch vụ; thiếu định hướng công nghệ và hệ sinh thái công nghệ; thiếu tài nguyên dữ liệu chất lượng và nền tảng chia sẻ, khai thác dữ liệu chưa hiệu quả...

Nhiều doanh nghiệp công nghệ số vẫn là doanh nghiệp vừa và nhỏ, tiềm lực tài chính không đủ lớn, khó khăn trong việc đầu tư cho các sản phẩm, nền tảng công nghệ mới hay các giải pháp số. Khi bị phụ thuộc vào nguồn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp trong nước sẽ thua thiệt, tác động chung đến sự phát triển bền vững của ngành công nghiệp công nghệ Việt Nam.

Đáng chú ý, đầu ra của ngành công nghiệp công nghệ số phần lớn phụ thuộc vào thị trường nước ngoài, các sản phẩm phần cứng, phần mềm, nội dung số, chủ yếu phục vụ xuất khẩu. Các doanh nghiệp công nghệ số đang phải đối mặt với sự cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài.

Nhiều doanh nghiệp tư nhân khó tiếp cận được dữ liệu của các đơn vị, cơ quan tổ chức để phát triển sản phẩm, dịch vụ, dẫn đến việc thiếu tư liệu sản xuất (dữ liệu) và làm cho các doanh nghiệp công nghệ số gặp khó khăn trong việc phát triển sản xuất. Nguồn nhân lực công nghệ thông tin trong nước vừa là lợi thế, nhưng cũng dễ mất lợi thế về nhân lực giá rẻ, trong khi nhân lực chất lượng cao chưa được hình thành...

Nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của phát triển công nghệ số trong thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách thể hiện sự quyết tâm phát triển công nghiệp công nghệ số.

Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 22/3/2018 của Bộ Chính trị (khóa XII) đã chỉ rõ định hướng xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 với quan điểm phát triển công nghiệp công nghệ thông tin, công nghiệp điện tử là con đường chủ đạo; phát triển công nghiệp chế biến, chế tạo là trung tâm; phát triển công nghiệp chế tạo thông minh là bước đột phá; chú trọng phát triển công nghiệp xanh. Mục tiêu đến năm 2030, tập trung ưu tiên phát triển một số ngành công nghiệp: Công nghệ thông tin và viễn thông, công nghiệp điện tử ở trình độ tiên tiến của thế giới, đáp ứng được yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0.

Nhà nước, các bộ, ngành liên quan cần có những chính sách, quy định cụ thể cho việc xây dựng, vận hành và duy trì cơ sở dữ liệu về chất lượng sản phẩm dịch vụ công nghệ số Make in Vietnam. Có những chính sách ưu đãi cho doanh nghiệp công nghệ số, như: Thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế nhập khẩu, ưu đãi vay vốn... Bên cạnh đó, cần có chính sách kiểm soát chất lượng sản phẩm dịch vụ công nghệ số Make in Vietnam thông qua các tiêu chí thống nhất cho nền tảng chuyển đổi số quốc gia hay các nguyên tắc, tiêu chí xác định nền tảng số, sản phẩm dịch vụ công nghệ số Việt Nam cần hạn chế sở hữu nước ngoài.

Các doanh nghiệp công nghệ số phải lấy chất lượng và thương hiệu Make in Vietnam làm nền tảng; chú trọng đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao và luôn có lực lượng tiếp nối. Nhà nước cần ưu tiên bố trí ngân sách cho sử dụng sản phẩm dịch vụ số, đồng thời có các chính sách, gói kinh tế hỗ trợ doanh nghiệp đào tạo, tiếp cận về công nghệ số. Tăng cường kết nối, xúc tiến hợp tác quốc tế để tìm kiếm thị trường mới. Hiện nay, nguồn tài nguyên dữ liệu dùng chung của quốc gia đang dần hình thành, chuẩn hóa và chia sẻ, các doanh nghiệp công nghệ số tập trung triển khai hoạt động sản xuất, thương mại ưu tiên hạ tầng số, dịch vụ số và nội dung số.

Khoa học công nghệ không chỉ là cầu nối đưa nhanh các nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ chuyển giao vào sản xuất mà còn đóng vai trò như một lực lượng sản xuất chủ lực, tạo ra những sản phẩm có giá trị gia tăng cao đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp. Trong bối cảnh, phát triển kinh tế tạo không ít sức ép đến môi trường,ứng dụng công nghệ xanh để bảo vệ môi trường là trách nhiệm của mỗi doanh nghiệp, người dân.

Theo kinh nghiệm của một số nước, để thúc đẩy tăng trưởng xanh và phát triển bền vững ở các quốc gia có thể khác nhau nhưng đều hướng tới sản xuất và tiêu dùng xanh; giảm phát thải khí CO2 gây hiệu ứng nhà kính; kích thích với biến đổi khí hậu; phát triển công nghệ xanh và các ngành công nghiệp sử dụng ít tài nguyên, áp dụng các biện pháp sản xuất sạch… nhằm buộc các nhà sản xuất chuyển chi phí bảo vệ môi trường vào giá thành sản phẩm; khuyến khích các nhà sản xuất đầu tư bảo vệ môi trường.

Lễ ký kết hợp tác giữa Công ty Syntegra Solar và Tập đoàn GFS với mục tiêu đầu tư phát triển trọng tâm trong lĩnh vực nông nghiệp hữu cơ, khoa học công nghệ ứng dụng - năng lượng tái tạo

Theo giới chuyên gia, trong khi thế giới đang bước vào cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đặc trưng bởi công nghệ cao, máy móc hiện đại, nền tảng công nghệ xanh... thì Việt Nam vẫn đang ở giai đoạn công nghiệp lần thứ 2, chủ yếu là dây chuyền gia công lắp ráp, phát triển dựa vào chi phí nhân công giá rẻ và nguồn tài nguyên sẵn có, chi phí đầu tư cho đổi mới khoa học công nghệ của doanh nghiệp Việt Nam còn thấp.Nhận thức được vấn đề này, thời gian qua, có nhiều doanh nghiệp đã ý thức được phát triển kinh tế gắn với bảo vệ môi trường, để phát triển bền vững; thực hiện tốt quy hoạch bảo vệ môi trường; đặc biệt là nâng cao năng lực của mình, tận dụng mọi cơ hội từ cuộc cách mạng công nghệ lần thứ 4 để tăng hiệu quả kinh tế.

Điển hình là nhiều năm qua, Tập đoàn Five Star Group (GFS) đã tạo bứt phá toàn diện trên tất cả các lĩnh vực từ hoạt động sản xuất - kinh doanh đặc biệt là khoa học công nghệ. Thấu hiểu vai trò khoa học trong sản xuất, kinh doanh và trong cuộc sống, GFS đã không ngừng tìm hiểu, nghiên cứu, chọn lọc các công nghệ tiên tiến trên thế giới để đưa ra giải pháp ứng dụng, chuyển giao tại Việt Nam. Những công nghệ xanh, tiết kiệm nhiên liệu được chúng tôi đặc biệt chú trọng ứng dụng trong các dự án của mình nhằm đóng góp vào nỗ lực xây dựng môi trường phát triển bền vững tại Việt Nam và cải thiện chất lượng cuộc sống.

Nhiều dự án chuyển giao công nghệ đã được Công ty Cổ phần JIVC - Công ty thành viên thuộc tập đoàn GFS đưa vào ứng dụng thành công trong các dự án trong và ngoài nước như: Công nghệ gia cố nền đất NeowebTM là công nghệ phân tách, ổn định và gia cố nền đất được áp dụng chủ yếu trong lĩnh vực xây dựng hạ tầng, giao thông vận tải và thủy lợi. Công nghệ này giúp giảm thời gian thi công, giảm chi phí xây dựng và duy tu sửa chữa sau này. Đây cũng là giải pháp công nghệ xanh cho các công trình mái dốc và tường chắn đất được áp dụng thành công trong các dự án tại Đà Lạt, Đà Nẵng, Hà Nội và Phú Thọ. Công nghệ “Tái sinh và bảo dưỡng nguội mặt đường bê tông nhựa TL-2000” được ứng dụng trong duy tu, trùng tu, sửa chữa và bảo dưỡng kết cấu áo đường bê tông nhựa trên đường ô tô, sân bay,…Công nghệ TL-2000 đã được áp dụng thành công tại hơn 10 dự án trong nước và xuất khẩu sang Nhật Bản, Malaysia, Indonesia, Australia và Đại sứ quán Mỹ tại Kazakhstan,…

Để đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học ứng dụng, chuyển giao công nghệ, Tập đoàn GFS đã thành lập Viện Công nghệ GFS là nơi quy tụ và hợp tác với các nhà khoa học hàng đầu Việt Nam và các nước trên thế giới như Nhật Bản, Hàn Quốc, Nga, Isarel…

Hiện nay, Viện Công nghệ GFS đang liên kết chiến lược với các tổ chức khoa học - công nghệ hàng đầu Việt Nam và nước ngoài như: Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Viện Ứng dụng Công nghệ - Bộ Khoa học Công nghệ, Viện Vi Sinh vật và Công nghệ Sinh học - Đại học Quốc gia Hà Nội, Công ty TNHH Dược khoa - Trường đại học Dược, Viện Vật lý Nhiệt – Viện Hàn lâm Ucraina…

Giới chuyên gia nhấn mạnh công nghệ xanh là một trong những giải pháp hàng đầu trong công cuộc chống biến đổi khí hậu, đồng thời cũng là một lĩnh vực tràn đầy triển vọng phát triển trong tương lai. Bởi vậy, các quốc gia theo đuổi công nghệ xanh nghĩa là không chỉ hướng tới mục tiêu môi trường mà còn nhắm tới một lĩnh vực có khả năng tạo sinh khí mới cho nền kinh tế. Theo tầm nhìn đến năm 2020, Việt Nam coi công nghệ sạch và năng lượng sạch là chìa khóa để giảm phát thải khí nhà kính từ 8 đến 10%, hướng tới mục tiêu đến năm 2050 sẽ tiếp tục giảm thêm 1,5-2%. Theo đó, nhằm đạt được mục tiêu đến năm 2020, 50% doanh nghiệp Việt Nam ứng dụng các công nghệ xanh trong hoạt động sản xuất kinh doanh, theo ước tính của Chương trình Công nghệ Thích ứng với Biến đổi Khí hậu.

Để đạt được mục tiêu, rất cần những chính sách ưu đãi đối với hoạt động đầu tư phát triển khoa học và công nghệ gắn với khởi nghiệp đổi mới sáng tạo. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng cần chủ động tìm kiếm cơ hội xây dựng mô hình chuyển đổi từ khu công nghiệp thành khu công nghiệp sinh thái thông qua các cuộc giao lưu trao đổi với chuyên gia, đối tác trong và ngoài nước.